midnight converse with AI


wanna see it?




reIGnless minD

I don’t think I’m ever the master of my own mind.
I mean, most of the time, it’s the one dominating my being.
It works in mysterious ways. It pretends to let me lead but is actually pulling the strings.
Like, I don’t want to think, yet it slips in, planting intrusive thoughts randomly at unexpected moments, rendering me powerless against its force.

If we truly owned our minds, that would be a kind of utopian state.
However, we don’t.
That’s where life happens — and death, too.
Because we’ve lost one too many beings to the black holes within themselves.

I never intend to dwell on that, but my mind creeps in.

Sometimes, I have thoughts to share with them, but even that most private action can’t ever fully develop.
Just at the inception of a thought, another one arises:
“To whom and what do I give my thoughts when they no longer exist?
What comes after the end?
Do I give my thoughts to the void?
Then what’s the point?”

I’m an atheist to the core.
I find no solace in believing there’s something beyond death.
But that’s the point — it’s actually its own kind of consolation: there’s nothing.
It’s the nothingness.

But it haunts me sometimes.

The decisions of the departed are incomprehensible to those of us left behind,
simply because we’re left with our minds wandering,
and they can work out a million what-ifs.
But I don’t think we should let it go there.

I have my stance:
I choose to respect those who have reached that finish line a little too soon.
That choice actually is the one I must practice — the conscious act of teaching the mind that it’s okay to be stared at by the abyss sometimes,
and that there are no obvious, easy options for all of us to choose.
Among the pool of options, one simply chooses to keep going on, or not.

And may my mind continue to find the strength to face it all,
and be at ease, at least.






november 09, 2024

nhAi LẠi

mô đất qua té oài té oạch
cà phê vườn tuốt mỏi tay
rụng xuống vũ trụ tí tí tinh cầu xanh đỏ chìm lõm bõm
soi ếch
ngự đỉnh cây,
lôi mền trời đắp
đậy kín lủm thung
chữ nghĩa rớt đâu
ngoài phố thị
tuyệt chủng ngôn từ




april 14, 2025

màU đỎ

không còn nữa dịu dàng
định được đâu từ lúc nào thành vậy
là từ một đòn đau hồi ấu trĩ
hay từ khi biết nhục
mà tự rơi nước mắt
cho mình?

tích cóp chi đầy giận dữ
thây đời đã dợn mùi thối rữa




april 17, 2022

gIải pHẫu một ngụm khÓi






december 01, 2024

Ô. ô.

Người đẻ ra người
Sống tranh nhau chỗ đứng chân
Sống giành phần người chết
Người chật cứng đất, đòi lấn khoảng không,
đòi chặt sông chém biển,
ra khúc, ra thỏi
phân lô
Ô.
Ô.
Ô.
Ô.

ông Thần quét lưỡi, liếm ngang
Ngả rạp,

Người,
mồ.
Người,
mồ.

Mồ.
Mồ.
Mồ.
Mồ.

Mồ đẻ ra mồ.

Một cữ gió điếm đàng khẽ chạm,
cũng gãy đôi
xạch

tiêu âm.




october 14, 2024

lý sự vỀ tâm hồn

hồn lằn vạch như lưng người ở trần nằm chiếu đay ngủ dậy giấc trưa
mẹ đâu đẻ ra con cái đó
vơ rác đâu về đầy nắm
đắp lên thân, lỗ chỗ vá, che tạm cục thịt thú đỏ hỏn nhung nhúc máu tươi
gọi con người được chưa? đã coi như cũng có cái tâm hồn

phần này là đem tâm hồn mình lên sân khấu

họ bật dậy,
cười, vỗ, giễu
“ô hô hay quá, giữa chúng ta có một nhà thơ”

mắc gì ngạc nhiên dữ vậy?
phải bàng hoàng cho đáng bàng hoàng

hãy bật dậy, khi những thằng mày,
đào không lên nổi một đứa có thơ
cái tâm hồn, thời gì đi nhạo

vậy mới ghê




october 07, 2024

cOarseneSs of cOnsciouSnesS

kiến bò thành hàng theo vệt phấn mẹ vạch
vôi vữa nức toác mảng tường nắng ong ong
cứt gà ỉa lâu ngày đầy tháng đóng quánh thành vỏ trái đất
trong dãy chuồng gà chỉ nhốt hon đa
(chắc gà bận đi tiến hóa thành khủng long T-rex)
sinh vật lúng túng lúc này chưa thành sinh vật
chỉ là cục thịt họ lỡ đặt tên
hắn vung tay, trải phẳng mình bốn góc, vắt qua vụ trũ trưa hè

trên nóc dãy chuồng người ta rải gạo và lá, phơi khô
thành cơm cháy, nhai rộn rạo, vị kiến bò, nhồn nhột nắng trưa
mùi cứt gà, lọc qua lớp lớp địa tầng, tẩm lá khô, chắt ra chất lỏng, uống trà

hắn lim dim mộng mị
cũng đem mình ra phơi lấy nắng

để thành người




october 07, 2024

nhữnG bạn ngưỜi đi trƯớc

mồ đẻ ra mồ lênh láng
vụ mùa ắp ứ, ruộng mồ bao thửa, ai cày?
mặt trời không thấy nữa, linh hồn không ai gặt, bơ vơ

bạn còn sống, xin gọi tôi, qua số...
một lính già, gào với những hồn ma




april 14, 2025

NHảM






april 14, 2025

bUZz

What to do with days like these?
Things have passed, and all that’s left is uncertainty
Do I wail?
What to do with heat this intense?
Do I wither?
In this stagnant water,
Do I have the strength to pick myself up and get to shore?
It’s been an endless afternoon
Life has started to stink






october 10, 2024

ruỘt gAn lộn tùng pHèo

are we not birthed from the same void?
do we not voice the same dread?
sấm thét lên đàn gà nháo chạy
vặt lông gà mái
người ta luộc chín mẹ tôi rồi




october 09, 2024

ứC chI hung

ta là bóng đổ của một hiện diện nào khác
chỉ thời gian là Chúa
cắt
về khoảng rỗng

viết ra thừa phẩm

cấu tạo gồm 100% sự xạo

quá nhiều nhân phẩm cũng làm hỏng mất việc làm người




october 07, 2024

One who dRowned

I did a poem long ago
each word a bee, forming a colony, stinging the newfound senseless freedom

my newborn lungs, the air stung
humiliation, I howled that word aloud

the void wasted me

a name I was to bear
a form I was to take
a poet no more

gibberish all noise became
I taught myself to speak

the sound of sweet nothing




july 14, 2024

The fOur LoVes

There was a man who found a naked tree
Sleeping in winter woods, and brought her home,
And tended her a month in charity
Until she woke, and filled his quiet room

With petals like a storm of silver light,
Bursting, blazing, blended all of pearl
And moonshine; he, in wonder and delight,
Patted her magic boughs and said: Good girl.

Thereafter, still obedient to the summer
The tree worked at her trade, until behold
A summer miracle of red and gold,
Apples of the Hesperides upon her,
Sweeter than Eden and its vanished bowers . . .
He said: No, no, I only wanted flowers.

– Sonnet XXIX
Joy Davidman

Tháng Tư năm 1958, C. S. Lewis (Clive Staples Lewis) nhận được đề xướng từ Episcopal Radio-TV Foundation về dự án sản xuất chuỗi bài nói qua đài truyền thanh, chủ đề tùy chọn. Ông gật đầu.

Trở về từ chuyến trăng mật với người bạn đời Joy Davidman, C. S. Lewis – khi đó gần 60 – đã hoàn thành xong kịch bản. Và trong những tháng tiếp sau, ông khởi sự thu âm 10 cuốn băng, xoay quanh bốn từ chỉ tình yêu của người Hy Lạp – Storge, Philia, Eros, Agape – tại một phòng thu ở London.


1. STORGE | AFFECTION

2. PHILIA | FRIENDSHIP

Khi nói về phần Eros (phải nhớ đây đang là thập niên 50), C. S. Lewis đã đề cập thẳng thắng đến chủ đề khiêu dâm, thậm chí còn khẳng định rằng sự thô bạo, thậm chí là dữ dội trong đời sống tình dục là hoàn toàn vô hại và lành mạnh. Ông không đồng tình với “sự trang trọng hóa tình dục lố bịch” của xã hội, mà cho rằng:

Những mẩu quảng cáo thời nay, dù thuộc vào hàng gợi cảm nhất, mô tả hoạt động này theo hướng say mê, mãnh liệt, ngất ngây-sùng kính (từ của Lewis: swoony-devout); hiếm khi có chút vui vẻ.
Các nhà tâm lý học ám ảnh tâm trí ta với tầm quan trọng vô hạn của hòa hợp tuyệt đối trong tình dục, và những gì họ đòi hỏi là gần như bất khả thi, đến mức tôi có thể hình dung cảnh một số cặp đôi trẻ hiện nay đang làm tình với toàn bộ tác phẩm của Freud, Kraft-Ebbing, Havelock Ellis và Tiến sĩ Stopes bày đầy cạnh giường… Ta đã đạt đến thời điểm mà không có gì cần thiết hơn là một tràng cười sảng khoái cổ điển.”

Đủ để nói, C. S. Lewis không ủng hộ sự phù phiếm, mà là niềm vui.


3. EROS | ROMANCE


4. AGAPE | CHARITY


Ghi âm đã đời, rốt cuộc, nhà đài từ chối phát sóng. Dễ đoán được lý do.

Mãi đến những năm 1970, Episcopal Radio-TV Foundation (lúc đó đã đổi tên thành Episcopal Media Centre) mới cho phát hành những cuốn băng này. Tuy nhiên, bộ phận phát hành cảm thấy một chút biên tập là cần thiết để bớt gây tranh cãi. Kết quả là, bằng một cách nào đó, họ đã xóa luôn điếu thuốc trong tay C. S. Lewis trên hình bìa cuốn băng.

Ngoài những văn bản C. S. Lewis để lại, di sản về băng ghi âm của ông phần lớn đã bị thất lạc qua chiều dài lịch sử; vì vậy – thôi bàn đến ngọn nguồn của chúng – những cuốn băng The Four Loves hiếm hoi sót lại có giá trị không thể chối cãi.

Ta nghe được giọng nam trầm ấm, với thứ tiếng Anh pha chút chất Ireland, dễ khiến ta nghĩ đến hình tượng một ông ngoại trong truyền thuyết, thủ thỉ đọc truyện cho đứa cháu nhỏ cạnh giường, dỗ giấc ngủ buổi khuya.

Trước khi kết hôn vào năm 1956, mối quan hệ của Joy Davidman và C. S. Lewis chủ yếu là qua trao đổi thư từ. Trong khoảng từ năm 1950 kéo dài đến hôn nhân, Joy đã viết 45 bài sonnet đề tặng Jack (C. S. Lewis), thể hiện tình yêu bà dành cho ông. Ở đây chép thêm bài sonnet mở đầu:

Dear Jack, I’ve written a few poems you might be interested in, but they are flawed, I think, because I jotted them down so quickly and easily. In fact, I’ve often dashed off sonnets like this in the past—my words rush beyond my art. Still, here they are, written especially for you. After you read them you may not think them very good. That’s as may be. But writing verse is my only talent. My poems may fail; my affection for you won’t. America. 1951

Về phần C. S. Lewis, trong bức thư gửi Dom Bede Griffiths ngày 24 tháng 9 năm 1957, ông miêu tả diễn tiến tình cảm của mình dành cho Joy:

It is nice to have arrived at all this by something which began in Agape, proceeded to Philia, then became Pity, and only after that, Eros. As if the highest of these, Agape, had successfully undergone the sweet humiliation of an incarnation.
Collected Letters Vol. III 884




Để tài liệu đây xem thêm:






november 10, 2023

một nƠi nươnG náu

Câu chuyện mở ra ở vùng quanh Wilno, ở Lithuania. Ta gặp một cậu bé Ba Lan, Janek Twardowski, đang nấp dưới khu hầm trú ẩn đào trong một khu rừng khi quân Đức đến. Đó là năm 1942 và trận Stalingrad bắt đầu.

– Cần phải nghi ngờ con người.

Bác sĩ Twardowski, bố của Janek, dặn đi dặn lại cậu như vậy, trước khi ông đi khỏi, và không bao giờ quay lại. 14 tuổi, nỗi đau đầu tiên Janek đối mặt là cái chết của bố. Cuộc phiêu lưu của Janek (hay hành trình giáo dục của cậu) bắt đầu khi cậu quyết định chui ra khỏi hầm để đến chỗ những người du kích – như bố cậu từng dặn – dù cậu không biết rõ lắm “du kích” nghĩa là gì.

Câu chuyện tiểu thuyết xoay quanh quãng đời Janek gia nhập quân du kích. Rồi trận chiến sẽ kết thúc, thắng lợi sẽ đến, Janek sẽ trở thành sĩ quan, cậu sẽ về thăm lại khu rừng nơi mọi thứ bắt đầu, cậu sẽ nhận ra mình không còn nữa khả năng để hiểu những cây sồi: vì cậu đã đau, quá nhiều.

Xen kẽ liên tục giữa thực tế tàn khốc của chiến tranh và những mô tả cổ tích, Romain Gary đã tạo ra một bầu không khí gần như kỳ diệu: những nhân vật thần thoại trong hàng ngũ du kích, bối cảnh khu rừng tuyết với những cái lỗ chui để ẩn náu, tình yêu giữa Janek và Zosia, và cuộc nói chuyện về lý tưởng của những sinh viên quanh đống lửa. Khu rừng kỳ diệu này vừa dung chứa số phận cụ thể của các nhân vật, vừa là không gian để tác giả truyền tải thông điệp phổ quát của mình.

Tiểu thuyết là hành trình Janek đi qua nỗi tuyệt vọng, sự mất mát và niềm đau, với hành trang là cái lý tưởng mà cậu cố bám víu, hay đúng hơn, là ảo ảnh về lý tưởng, được thêu dệt nên chỉ để dỗ dành cho niềm hy vọng hao mòn về thắng lợi. Tựa sách “Giáo dục Châu Âu” tự nó là trò đi thăng bằng trên lằn ranh hy vọng/tuyệt vọng – trạng thái mà ta sẽ thường khi bắt gặp mình ở trong khi đọc cuốn sách này.

Cụ thể trong câu chuyện, “Giáo dục Châu Âu” là tựa đề mà một trong các nhân vật, anh sinh viên Dobranski, dự định đặt cho cuốn sách mình đang viết. Dobranski giải thích với Janek (cũng là Romain Gary giải thích với độc giả):

– Chủ đề là gì?

Janek hỏi Dobranski.

– Những người chịu đau đớn, tranh đấu và xích lại với nhau…


Và:

– Nó tên là Giáo dục Châu Âu. Chính Tadek Chmura đã gợi ý cho tôi cái tên đó… Lẽ dĩ nhiên anh ấy đặt vào đó một ý vị mỉa mai… Giáo dục châu Âu, đối với anh ấy, đó là những quả bom, các cuộc tàn sát, những con tin bị xử bắn, những người buộc phải sống trong các cái lỗ, giống lũ súc vật… Nhưng tôi, tôi nhận lời thách thức. Người ta có thể thoải mái nói với tôi những gì họ muốn về tự do, về phẩm giá, danh dự là một con người, toàn bộ những cái đó, rốt cuộc, chỉ là một câu chuyện vú em hay kể, một truyện cổ tích vì đó người ta bị giết. Sự thật là có những khoảnh khắc trong lịch sử, những khoảnh khắc như khoảnh khắc chúng ta đang sống đây, nơi toàn bộ những gì ngăn cản con người tuyệt vọng, toàn bộ những gì cho phép anh ta tin và tiếp tục sống, đều cần một chỗ trốn, một nơi nương náu. Nơi nương náu đó, đôi khi chỉ là một bài hát, một bài thơ, một thứ âm nhạc, một cuốn sách. Tôi mong sao cuốn sách của tôi là một trong những chỗ nương náu ấy, rằng khi nó mở ra, sau chiến tranh, chừng mọi chuyện đã kết thúc, người ta tìm được tài sản của họ còn nguyên vẹn, rằng họ biết là người ta đã có thể bắt chúng ta sống như lũ vật, nhưng người ta đã không thể bắt chúng ta tuyệt vọng được.

Cậu sinh viên Dobranski không bao giờ hoàn thành cuốn sách, anh chết ngay bên lề thắng lợi. Janek là người thừa kế và Romain Gary là người kết thúc cuốn sách, y lời Dobranski trăn trối:

– Hứa với tôi….
– Em hứa.
– Hãy nói với họ về cái đói và cái lạnh buốt giá, về hy vọng và tình yêu…
– Em sẽ nói với họ về chúng.
– Tôi muốn họ kiêu hãnh về chúng ta và họ xấu hổ…
– Họ sẽ kiêu hãnh về họ và họ sẽ xấu hổ về chúng ta.

Đó là đáp án của Janek cho tất cả thương đau mà chiến tranh để lại cho bầy nạn nhân của nó, hay cái cười khẩy mỉa mai của một người đã ở bên kia tận cùng nỗi buồn?

– Chẳng gì quan trọng chết đi…
– Chẳng gì quan trọng chết đi… Chỉ… những con người… và lũ bướm…






november 25, 2023

coN cÓ khăn taY rồI chứ?

Vào tháng 1 năm 1945, Stalin ra lệnh trục xuất những người Romania – Đức trong độ tuổi từ 17 đến 45 tới Liên Xô để thực hiện 5 năm lao động cưỡng bức, nhằm “tái xây dựng” một Liên bang mới. Trong số đó có mẹ của Herta Müller. Nửa thế kỷ sau, Müller dành nhiều năm trò chuyện với một người Romania khác cũng là nạn nhân của sắc lệnh này, nhà thơ Oskar Pastior. Sau khi ông đột ngột qua đời vào năm 2006, từ ba cuốn sổ chép tay ghi lại phần đời của nhà thơ quá cố, Müller đã viết nên “Nhịp thở chao nghiêng”, với chính Oskar là nguyên mẫu của nhân vật Leo Auberg.


Cùng năm tiểu thuyết được xuất bản, 2009, Herta Müller được trao Nobel Văn chương. Bài diễn từ mà bà đọc trong dịp nhận giải xoay quay câu chuyện về chiếc khăn tay, một của mẹ bà, một của bà và một của Oskar Pastior.
Xin trích.

Con có khăn tay rồi chứ là câu mà mẹ hỏi tôi mỗi sáng, khi bà đứng ở ngưỡng cửa, và tôi đang dợm bước khỏi nhà. Tôi chưa có. Và vì vậy, tôi sẽ trở lại trong nhà lấy một chiếc mang theo. Tôi không bao giờ mang sẵn vì tôi luôn chờ bà hỏi. Chiếc khăn tay là hiện thân của sự quan tâm mẹ dành cho tôi mỗi sáng. Cả ngày còn lại, tôi một mình. Câu hỏi Con có khăn tay rồi chứ là bày tỏ gián tiếp của tình thương. Mọi thể hiện trực tiếp khác sẽ là quá ngượng và không phải kiểu cách của những người nông dân. Tình thương cải trang trong hình dạng một câu hỏi. Đó là cách duy nhất mà nó có thể được thốt lên: như một việc thiết thực, với giọng điệu điều khiến, hoặc cử chỉ khéo léo. Cách nói sỗ sàng thậm chí còn tôn lên nỗi dịu dàng. Sáng nào cũng vậy, tôi bước ra cửa lần đầu mà không có khăn tay, và lần thứ hai thì đã có. Chỉ sau khi đó, tôi mới ra ngoài, cứ như thể việc mang theo khăn tay cũng đồng nghĩa với có mẹ bên mình.

Khi tôi còn nhỏ, trong nhà có một hộc tủ dành riêng cho khăn tay, ngăn đôi thành hai hàng, mỗi hàng ba xấp khăn:
Xấp bên trái là khăn của đàn ông trong nhà, cho cha và ông.
Bên phải là khăn phụ nữ, cho mẹ và bà.
Ở giữa là khăn trẻ con, cho tôi.
Ngăn tủ này là bức chân dung gia đình dưới định dạng khăn tay. Khăn của đàn ông lớn bản nhất, với sọc sẫm màu viền quanh rìa, nâu, xám hoặc đỏ Bordeaux. Khăn phụ nữ thì nhỏ hơn, và được viền màu xanh biển nhạt, đỏ hoặc xanh lá. Khăn trẻ con nhỏ nhất, những mảnh vuông không viền rìa được trang trí với họa tiết hoa lá hoặc động vật. Ba loại khăn được chia ra như vậy dành cho sinh hoạt thường nhật, xếp ở hàng trước, và khăn dành cho ngày Chủ Nhật, nằm hàng sau. Ngày Chủ Nhật thì khăn phải cùng màu với quần áo, dù không ai thấy chúng.

Đối với chúng tôi, không có đồ vật nào khác trong nhà, kể cả chính chúng tôi, quan trọng bằng những chiếc khăn tay. Nó được dùng cho tất cả: sụt sịt, mũi chảy máu, tay đau, cùi chỏ hay đầu gối; khóc, hay cắn vào để ngăn mình khỏi khóc. Một chiếc khăn tay ướt lạnh đặt trên trán khi đầu đau. Cột bốn mép lại với nhau, nó giúp bạn tránh nắng hay mưa. Có điều gì cần nhớ, bạn thắt nút khăn để nhắc mình khỏi quên. Để mang vật nặng, bạn quấn nó quanh bàn tay mình. Khi tàu hoả rời ga, bạn vẫy nó để nói lời tạm biệt. Và bởi vì từ dành cho nước mắt trong phương ngữ Banat của chúng tôi nghe từa tựa từ tàu hỏa trong tiếng Romania, nên đối với tôi, tiếng đoàn tàu nghiến vào thanh sắt đường ray luôn nghe như ai đang khóc. Trong làng, khi ai đó chết tại nhà, họ buộc ngay một chiếc khăn tay quanh cằm người chết để giữ cho hàm ngậm chặt khi tử thi bắt đầu co cứng. Ở thành phố nếu có ai ngã gục giữa đường, sẽ có người đi ngang lấy khăn tay che mặt họ lại, để chiếc khăn trở thành nơi an nghỉ đầu tiên của người chết.

Vào mùa hè nóng bức, cha mẹ thường sai con họ đến nghĩa trang tưới hoa lúc tối muộn. Chúng tôi chia thành nhóm hai hay ba đứa, nhanh chóng tưới nước từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Sau đó cả nhóm sẽ ngồi lại với nhau trên bậc thang nhà thờ và nhìn những cụm sương trắng tỏa lên từ các nấm mồ. Chúng bay lên một đoạn rồi tan biến vào bóng đêm. Với chúng tôi, đó là linh hồn người chết: hình con thú, ly, chai lọ và cốc nhỏ, găng tay và tất dài. Và đây đó một chiếc khăn tay trắng được viền bởi đêm đen.

Sau này khi tôi gặp Oskar Pastior để viết về khoảng thời gian ông bị trục xuất đến trại lao động của Liên Xô, ông kể tôi rằng một bà mẹ người Nga lớn tuổi từng tặng ông một chiếc khăn tay làm từ vải batiste trắng. Có thể cả hai sẽ gặp may, bà mẹ người Nga nói, và cậu sẽ được về nhà, cả con trai tôi nữa. Con trai của bà bằng tuổi Oskar Pastior và cũng đang xa nhà như vậy, nhưng là về hướng ngược lại, bà nói, trong một tiểu đoàn lính cựu tù. Oskar Pastior đã gõ cửa nhà bà, một gã ăn mày sắp chết đói muốn trao đổi một mẩu than lấy ít thức ăn. Bà đem ông vào nhà và cho ông súp nóng. Và khi thấy nước mũi ông nhỏ vào tô, bà đưa ông chiếc khăn tay trắng bằng vải batiste mới tinh. Với đường viền cổ điển, cuống lá và hoa thị được thêu tỉ mỉ với chỉ lụa, chiếc khăn tay là một thứ đẹp đẽ vừa ôm ấp vừa đả thương gã xin ăn. Nó là kết hợp của hai thứ đó: niềm an ủi làm từ vải batiste và phép đo bằng lụa cho sự tàn tạ của ông. Đối với người bàn đà, Oskar cũng là một sự kết hợp: của một gã xin ăn bị thế giới bỏ rơi đang ngồi trong nhà bà, và của một đứa trẻ lạc loài trên thế gian. Cả hai nhân cách này đều đang vui sướng và lúng túng trước cách đối đãi của người đàn bà cũng là sự kết hợp của hai người khác nhau: một người đàn bà Nga xa lạ, và một bà mẹ sốt sắng với câu hỏi Con có khăn tay rồi chứ?

Kể từ lúc được nghe câu chuyện này, tôi nảy sinh một câu hỏi cho riêng mình: phải chăng Con có khăn tay rồi chứ có hiệu lực ở mọi nơi? Phải chăng nó trải dài nửa vòng trái đất trong ánh tuyết lấp lánh giữa thời điểm băng đóng lại và tan chảy? Phải chăng nó băng qua những ngọn núi và thảo nguyên để vượt mọi biên giới; liệu nó có thể vươn tới một đế chế khổng lồ với những trại cải tạo và trại lao động cưỡng bức nằm tản mát khắp nơi? Phải chăng câu hỏi Con có khăn tay rồi chứ là không thể trừ diệt, ngay cả với búa và liềm, ngay cả với tất cả những trại cải tạo theo chủ nghĩa Stalin?

Oskar Pastior cất giữ chiếc khăn tay đó trong chiếc rương của mình như một kỷ vật của hai người mẹ có hai đứa con. Và sau năm năm sống trong trại, ông đã mang nó về nhà. Vì chiếc khăn tay batiste trắng của ông là niềm hy vọng cũng như nỗi sợ. Một khi ta buông bỏ niềm hy vọng và nỗi sợ, ta chết.

Với tôi, có vẻ như đồ vật không biết chất liệu của chúng, cử chỉ không biết cảm xúc của chúng, và lời nói không biết đến khuôn miệng nói ra chúng. Nhưng để vững tâm về sự tồn tại của chính mình, chúng ta cần đồ vật, cử chỉ và lời nói. Suy cho cùng, càng nhiều từ ngữ ta được phép nói ra thì càng nhiều tự do ta có được. Nếu miệng của chúng ta bị cấm, ta cố gắng khẳng định mình qua cử chỉ, thậm chí đồ vật. Chúng thì khó để phiên dịch hơn, và sẽ mất nhiều thời gian hơn để người ta bắt đầu nghi ngờ chúng. Chúng có thể giúp ta chuyển hoá sự sỉ nhục thành một kiểu phẩm giá cần nhiều thời gian hơn để khơi dậy nghi ngờ.

Một sáng sớm, ngay trước khi tôi đến định cư ở Romania, một gã cảnh sát trong làng đến tìm mẹ tôi. Bà đã theo ông ta đến cổng và rồi chợt nhớ ra: Mình có khăn tay rồi chứ? Bà chưa có. Dù gã cảnh sát có tỏ ra cáu kỉnh, bà đã quay trở lại trong nhà để lấy một chiếc khăn. Tại đồn, gã cảnh sát nổi cơn thịnh nộ. Tiếng Romania của mẹ tôi quá hạn chế để có thể hiểu được lời gã đang la hét. Vậy nên gã rời khỏi phòng và chốt trái cửa. Mẹ tôi bị nhốt ở đó suốt một ngày. Những giờ đầu, bà ngồi trên bàn làm việc của gã và khóc. Sau, bà đi đi lại lại rồi bắt đầu dùng chiếc khăn tay ướt đẫm nước mắt của mình để lau bụi cho đồ đạc trong phòng. Cuối cùng, bà lấy xô nước ra khỏi góc và cái giẻ ra khỏi móc trên tường, rồi bà lau sàn. Tôi kinh hoàng khi nghe bà kể lại. Làm sao mà mẹ có thể dọn văn phòng cho hắn như vậy, tôi hỏi. Bà nói không chút bối rối: Mẹ đang tìm cái gì đó làm cho trôi thời giờ. Và văn phòng hắn bẩn thỉu khủng khiếp. May là mẹ đã mang theo một chiếc khăn tay bản lớn của đàn ông nhà mình.

Chỉ lúc đó tôi mới hiểu rằng bằng việc bổ sung thêm nỗi nhục tự nguyện này, bà đã tạo cho mình chút phẩm giá trong khoảng thời gian bị giam giữ.

Tôi ước rằng mình có thể thốt nên một câu nào đó dành cho những người hằng ngày bị chế độ độc tài tước đoạt nhân phẩm, từ trước đến nay và kể cả bây giờ — một câu, có lẽ, có chứa từ khăn tay. Hoặc là câu hỏi Con có khăn tay rồi chứ? Phải chăng câu hỏi về chiếc khăn tay chưa bao giờ là về chiếc khăn tay, mà là về nỗi cô đơn sâu thẳm của con người?


Xem cả bài: Herta Müller’s Nobel Lecture: Every word knows something of a vicious circle






july 29, 2022

cHặt sôNg ra từng khúC

Cứ độ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch hàng năm, mưa nhiều ở thượng nguồn sông Mekong khiến mực nước dâng lên, rồi ồ ạt đổ tràn về hạ nguồn vùng trũng đồng bằng sông Cửu Long. Thời điểm này, dân bản địa gọi là mùa nước nổi. Với đất miền Tây Nam Bộ, lũ lụt là trái ngược của thiên tai. Có thể gọi là thiên phước, nếu từ đó có nghĩa.

Con nước về quạch đỏ phù sa nhấn chìm làng mạc, ruộng vườn, nhà cửa.

Sáng sáng, một cậu học trò chèo xuồng đi học, dọc ngang giữa mạng lưới giao thông đường bộ nay đã trở thành đường thủy. Cậu có thể ghé nhà hàng xóm đón một thằng bạn chung lớp nhờ quá giang, rồi í ới chào bạn bè được tía má đèo trên những chiếc võ lãi, những chiếc xuồng ba lá chạy qua.

Chiều, cậu học trò chèo xuồng tan học, lấy những đụm cây điên điển bông vàng làm cột mốc, cậu ướm chừng hướng về nóc nhà mình. Tiện tay, cậu tuốt đầy một rổ điên điển, cái thứ bông ngọt ngọt nhẫn nhẫn, sinh ra để thuộc về nồi canh chua. Về đến nóc nhà mình, cậu lấy một chiếc rổ khác sục hú họa xuống biển nước lũ rồi vớt lên. Một mớ cá linh giãy lách tách xuất hiện trong lòng rổ vừa mới đây thôi chẳng có gì. Một màn ảo thuật tài tình.

Lát nữa thôi, dăm chú cá linh sẽ bơi chung cùng điên điển, một tí me dầm và lá me, vài nhánh bạc hà cộng với rau thơm. Những chú cá còn lại thì được chiên giòn, đặt cạnh chén mắm me chua chua mặn mặn. Gia đình cậu học trò có một bữa tối không khác gì ăn nhà hàng.

Đó là câu chuyện của hơn ba mươi năm trước, ở đất Mộc Hóa, Long An.

Cậu học trò nay đã bước qua tuổi 40. Mỗi lần thèm canh chua, cậu hay ra siêu thị mua từng nhúm bông điên điển đóng gói sẵn có xuất xứ từ Thái Lan, với cái giá khó hiểu so với khối lượng của nó. Bạn ghé chơi nhà, cậu học trò tìm mỏi mắt mới ra một gian hàng bán cá linh non đầu mùa trên Shopee, cậu bấm bụng bỏ tiền mua về làm lẩu. 250.000 đồng cho 500 gram thứ cá cậu từng úm ba la biến ra đầy rổ.

Miền Tây xưa nay nổi tiếng đẻ ra những người con hào sảng, cộng đồng nông dân sống sung túc và hạnh phúc nhờ vào mảnh đất lành được dòng Mekong tắm tưới phù sa. Nhưng cảnh con nước lên bây giờ đâu còn nguyên vẹn.

Ngày nay mùa mưa ở miền Tây Nam Bộ có xu hướng ngắn lại và mùa khô dài ra. Mùa xuân năm 2016, miền Nam chứng kiến đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm trở lại đây. Bây giờ, ghé ngang một xóm trọ lụp xụp ở Sài Gòn, bạn có thể gặp nhiều người miền Tây hơn là ở chính quê hương họ.

Chuyện gì đã xảy ra ở miền Tây?

Nếu một con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra cơn lốc xoáy ở Texas thì một con đập thuỷ điện được xây dựng ở bất cứ nơi nào giữa thân mình sông Mekong cũng chắc chắn ảnh hưởng đến đồng bằng sông Cửu Long.

Chuyến du khảo xuôi dòng Mekong của Brian Eyler chất vấn cặn kẽ loạt tác động domino đến từ mỗi cư xử dù là nhỏ nhất của con người sống dọc sông và dựa sông. Cuốn sách “Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ” là kết quả của chuyến thực địa này.

Bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Hải – Tây Tạng, chảy hơn một nửa chiều dài của nó qua Trung Quốc, “sông Mekong dài 4.300km và chạy qua hay tạo thành đường biên giới của Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.” Cuộc hành trình của tác giả bắt đầu với thung lũng ẩn khuất Vũ Băng – “thiên đường hạ giới cuối cùng” ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, từ đó ông bắt đầu khảo sát hàng loạt những dự án đập thuỷ điện đã và sẽ mọc lên ở các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia. Ông tìm đến những người dân bản địa hiểu về đất của mình, những dân bản địa đang khổ sở loay hoay với chính sách khai thác và tái định hình dòng Mekong trong mấy chục năm gần đây, những dân bản địa đấu tranh để giành giật lại kế sinh nhai của nhiều đời cha ông mình, những dân bản địa chọn thay đổi để thích nghi với việc con sông ngày nay không còn hào phóng như mấy chục năm trước.

Mỗi cộng đồng dân có vấn đề riêng của mình, nhưng không khó để phát hiện những mẫu số chung. Mẫu số chung phổ biến nhất là việc hàng triệu người mất đi sinh kế khi chính quyền tuyên bố sở hữu một dòng sông và đặt ra những hoạch định thu lợi từ nó, rồi đuổi đi những cộng đồng đã sống ở đây nhiều thế kỷ. Việc này trở thành đòn bẩy cho rất nhiều hệ lụy theo sau, và tác giả đã rất kiên nhẫn kể lại từng quân domino trước đánh sập quân sau như thế nào. Dưới đây là vài ví dụ.

– Xây đập Ô Lộng Long (Trung Quốc) > Cư dân làng Yến Môn ở ven sông bị chuyển đến tái định cư tại làng Tỳ Trung > Những ruộng lúa bậc thang của dân làng Tỳ Trung bị xóa sổ, những cây óc chó khổng lồ bị đốn hạ để nhường đất xây nhà cho dân mới đến > Dân làng Tỳ Trung không được đền bù thỏa đáng cho những thiệt hại này > Dân làng Tỳ Trung sẽ tổn thất thu nhập trong tương lai vì mất cần câu cơm > An ninh kinh tế của cộng đồng này sẽ hết sức nguy ngập.

– Xây đập trên sông Nam Ou (Lào) > Công ty xây đập chỉ cấp đất lập làng tái định cư chứ không cấp ruộng trồng lúa / Đất tái định cư là đất cằn cỗi không thể trồng trọt > Dân làng phải thuê đất canh tác của làng bên cạnh > Hơn một nửa dân làng ngập trong nợ nần.

– Lấp hồ Boeung Kak (Campuchia) để xây dự án > Cư dân phải di dời đến làng tái định cư cách đó 20km > Các thành viên cộng đồng tái định cư bị giảm thu nhập đáng kể so với trước đây, họ khó tiếp cận y tế, giáo dục và nước > Thất nghiệp tăng cao, các triệu chứng trầm cảm và lo âu hiển hiện. “Nhiều người trong số này là nạn nhân của chế độ Khmer Đỏ. Cuộc sống, đối với họ, là chuỗi bi kịch không dứt.”

Tác giả dành sự quan tâm đặc biệt đến những cộng đồng Zomia, khái niệm địa lý để chỉ các miền cao của vùng Mekong cùng những vùng đất ngập nước và đầm lầy – những khu vực mà nhà nước khó xâm nhập. Địa hình này là “khu vực nương náu của các nhóm sắc tộc chọn trốn tránh các nền văn minh đồng bằng đang bành trướng như Trung Quốc, Việt Nam hay Thái Lan.” Các cộng đồng dân cư Zomia xưa có thể duy trì một khoảng cách với các chính quyền cai trị và giữ được sự độc lập của họ là nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sẵn có xung quanh. Họ ít phụ thuộc vào sự giàu có tiền tệ mà tự hào về sự giàu có sản vật và bản sắc văn hoá.

Nhưng việc đó đang thay đổi. Khi những trung tâm quyền lực tham lam mang danh nghĩa “hiện đại hóa” để xây dựng những tuyến đường, những cơ sở vật chất phục vụ du lịch ở khắp Zomia, họ cướp trắng trợn quyền kiểm soát tài nguyên và láo xược hủy hoại kết nối văn hoá bản địa.

Rồi tóm lại, điều gì đã xảy ra với đồng bằng sông Cửu Long?

Tất cả mọi thứ:

– Các đập của Trung Quốc ở Thượng Mekong giữ lại hơn một nửa toàn bộ trầm tích trong hệ thống sông Mekong. Trầm tích do lũ lụt hàng năm của con sông mang lại là phần tạo lập cơ bản của đồng bằng sông Cửu Long. Không có nó, đất của đồng bằng sẽ rã ra trong điều kiện tự nhiên.

– Trầm tích mất đi cũng làm xói mòn bờ sông, khai thác cát ở lòng sông cũng đẩy nhanh quá trình xói mòn này. Các công trình ven bờ bị kéo xuống lòng sông, những mảng thực vật được trồng để giữ bờ bị xé rách, người người mất nhà cửa, tài sản, gia súc, nông cụ.

– Mực nước biển dâng cao khiến đất đồng bằng bị xâm nhập mặn, hệ thống đê ở thượng nguồn chặn lại một lượng nước sông đáng kể khiến miền Tây khát lũ, không có lũ tẩy rửa nước mặn, đất đồng bằng cơ bản là không thích hợp cho trồng trọt.

– Nông dân chuyển sang khai thác nước ngọt từ các mạch nước ngầm sâu trong đất khiến đất mất chân rồi sụt lún.

– Đồng bằng sông Cửu Long phải chịu trách nhiệm làm “vựa lúa của khu vực”, người dân được khuyến khích tăng vụ, từ 1 vụ lúa tăng lên thành 2 vụ, rồi 3. Trồng 3 vụ lúa một năm rút cạn chất dinh dưỡng của đất. Người nông dân chi nhiều cho phân bón và thuốc trừ sâu hơn. Rốt cuộc chất lượng lúa giảm xuống mà người nông dân vẫn chẳng lời lãi bao nhiêu. Số phân bón và thuốc trừ sâu trong đất sẽ theo cống rãnh đi vào sông. “Thời đó chúng tôi ăn rau dại hái từ các cánh đồng và bờ sông. Chúng tôi có những dòng sông trong xanh, mọi người đều tắm sông. Giờ không ai dám tắm sông nữa. Nước giờ chảy ra từ những cánh đồng ô nhiễm thuốc trừ sâu gây ngứa.”

– Nghề nông thất thế, con cháu nông dân lũ lượt kéo nhau lên thành phố lớn để làm công nhân, tạo ra những làn sóng di dân nội địa, con cháu tiếp sau của thế hệ này sẽ mất kết nối với quê hương, một sự đứt gãy văn hóa đang diễn ra.

Vì sự ngạo mạn nào của loài người mà làm trái đất nóng lên? Làm băng tan? Làm nước biển dâng? Làm các loài vật tuyệt chủng? Làm mất rừng? Làm dòng sông vốn hào sảng và bao dung đến thế cằn cỗi đi và chết dần?

Xa xưa, biết bao cộng đồng người đã tìm ra cách sống chung hòa hợp với thiên nhiên chứ không chống lại nó. Đó là câu chuyện mà người hiện đại bây giờ lật lại, đặt khái niệm “phát triển bền vững”, rồi loay hoay cố giải câu đố đã có đáp án từ đời nào.

Tác giả nhắc đi nhắc lại khái niệm “kết nối”, ông mong rằng đây sẽ là thông điệp được độc giả học thuộc lòng sau khi gấp sách lại.

Dòng sông tự nó không có Thượng hay Hạ Mekong. Cả hệ thống này là một. Không có phần Thượng Mekong thì không có vùng đồng bằng. Không có hoạt động dọc theo dòng sông, đi qua Lào, đi qua Thái Lan, đến Campuchia, thì sẽ không có sự đa dạng sinh học phong phú của dòng Mekong. Tôi thích so sánh dòng sông với cây. Thân cây không tự phát triển một mình. Nó phát triển nhờ tán, lá, rễ. Khi nghĩ về sông Mekong, anh nên nghĩ nó giống như một cây xanh. Nếu nó chỉ là thân cây, thì dân ở Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia hay Việt Nam nghĩ rằng phần thuộc về họ là phần quan trọng nhất. Nhưng không phải vậy. Nếu người ta cắt tất cả các nhánh của cây, thân cây sẽ chết. Nếu người ta cắt rễ của cây, thân cây sẽ chết. Vì thế, nếu chúng ta muốn bảo tồn dòng Mekong hùng vĩ này, chúng ta phải nhìn vào tất cả các phần của dòng sông vốn được kết nối thành hệ thống.

Thử mang theo cuốn sách này làm hành trang đi ngược từ hạ nguồn lên thượng nguồn con sông, quan sát và lấy đồng bằng sông Cửu Long làm tham chiếu, có thể sẽ là một hành trình thú vị. Vì như tác giả nói, đồng bằng sông Cửu Long đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai của dòng Mekong. Miền Tây đã từng trù phú, đã từng cạn kiệt, rồi ngày nay đang nỗ lực tìm cách hồi sinh.

Rồi biết đâu, một cậu học trò gen Alpha sẽ xúc được rổ cá đầy?